Dinh Độc Lập đã trải qua nhiều biến động lịch sử kể từ khi được xây dựng năm 1868. Ban đầu mang tên Dinh Norodom, nó đã chứng kiến thời kỳ Pháp thuộc, sự đảo chính của Nhật Bản năm 1945, và quay trở lại tay Pháp sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Năm 1954, thực dân Pháp thất bại nặng nề trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ buộc phải ký Hiệp định Gienève và rút khỏi Việt Nam. Mỹ tìm cách nhảy vào thực hiện ý đồ xâm chiếm miền Nam, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành 2 miền. Ngày 07.9.1954, Dinh Norodom được bàn giao giữa đại diện chính phủ Pháp, đại tướng Paul Ely với đại diện chính quyền Sài Gòn Thủ tướng Ngô Ðình Diệm. Ngô Ðình Diệm đã quyết định đổi tên Dinh thành Dinh Ðộc Lập. Dinh mới được xây dựng sau sự kiện đảo chính 1962 và khánh thành năm 1966. Ngày nay, Dinh Ðộc Lập là di tích quốc gia đặc biệt được đông đảo du khách trong nước và nước ngoài đến tham quan và là nơi hội họp, tiếp khách của các cấp lãnh đạo trung ương cũng như của thành phố.
Hình ảnh cấu trúc cũ của Dinh Độc Lập trên báo Le Monde của Pháp số ra ngày 23 tháng 2 năm 1884.
Toàn cảnh dinh Norodom nhìn từ trên cao, xung quanh là những khoảng đất rộng rãi.
Đây là công trình kiến trúc hiện đại lớn nhất của Việt Nam thời bấy giờ tính cả ở hai miền Nam – Bắc. Trong đồ án thiết kế của mình, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã kết hợp khéo léo giữa phong cách kiến trúc hiện đại phương tây với những giá trị truyền thống Á Đông, tinh thần dân tộc. Cũng như Dinh Norodom trước đó, công trình là nơi ở và làm việc của gia đình tổng thống, cũng là cơ quan ngoại giao cấp cao của chính quyền Việt Nam Cộng hoà.
Khi thiết kế Dinh Ðộc Lập, Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ muốn tìm một ý nghĩa văn hóa cho công trình, nên mọi sự xếp đặt từ bên trong nội thất cho đến tiền diện bên ngoài, tất cả đều tượng trưng cho triết lý cổ truyền, nghi lễ Phương đông và cá tính của dân tộc. Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật kiến trúc hiện đại với kiến trúc truyền thống Phương Ðông. Toàn thể bình diện của Dinh làm thành hình chữ CÁT ( 吉 ) có nghĩa là tốt lành, may mắn; Tâm của Dinh là vị trí phòng Trình quốc thư; Lầu thượng là Tứ phương vô sự lầu hình chữ KHẨU ( 口 ) để đề cao giáo dục và tự do ngôn luận. Hình chữ KHẨU ( 口 ) có cột cờ chính giữa sổ dọc tạo thành hình chữ TRUNG ( 中 ) như nhắc nhở muốn có dân chủ thì phải trung kiên. Nét gạch ngang được tạo bởi mái hiên lầu tứ phương, bao lơn danh dự và mái hiên lối vào tiền sảnh tạo thành hình chữ TAM ( 三 ), theo quan niệm dân chủ hữu tam viết nhân, viết minh, viết võ, ý mong muốn một đất nước hưng thịnh thì phải có những con người hội đủ 3 yếu tố Nhân, Minh, Võ. Ba nét gạch ngang này được nối liền nét sổ dọc tạo thành hình chữ VƯƠNG ( 王 ), trên có kỳ đài làm thành nét chấm tạo thành hình chữ CHỦ ( 主 ) tượng trưng cho chủ quyền đất nước. Mặt trước của dinh thự, toàn bộ bao lơn lầu 2 và lầu 3 kết hợp với mái hiên lối vào chính cùng 2 cột bọc gỗ phía dưới mái hiên tạo thành hình chữ HƯNG ( 興 ) ý cầu chúc cho nước nhà được hưng thịnh mãi.
Sân trước của Dinh là một thảm cỏ hình oval có đường kính 102m.
Về mặt kiến trúc, công trình là một tác phẩm xuất sắc của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, với giá trị khoa học và thẩm mỹ cao. Đặc biệt, mặt tiền dinh được tranh trí bằng những lam bê tông hình đốt trúc mang âm hưởng dân tộc và tạo nên nét riêng biệt, độc đáo của công trình; vừa là yếu tố thẩm mỹ, vừa có tác dụng lọc sáng, đón gió và che chắn kín đáo.
Những bức phù điêu dưới ô cửa mang phong cách trang trí Á Đông
Dinh Độc Lập cao 26m, có diện tích xây dựng 4500m2; diện tích sử dụng khoảng 20.000m2, gồm tầng hầm, tầng trệt, 3 tầng chính, 2 gác lửng và 1 sân thượng với khoảng 100 phòng được trang trí nội thất khác nhau. Công trình có các phân khu: Khu làm việc của tổng thống và chính quyền, khu ở của gia đình tổng thống, khu vực phụ trợ (nhà kho, bếp, nhân viên) và hệ thống hầm trú ẩn cùng các phòng thông tin, tác chiến trong trường hợp xảy ra chiến sự liên quan trực tiếp tới dinh. Hệ thống hầm này có thể chịu được trọng pháo và bom hạng nặng. Nguyên vật liệu chính để xây dựng công trình gồm 12.000m3 bê tông, 200m3 gỗ quý, 2.000m2 kính cho hệ thống cửa, 4.000 ngọn đèn các loại… Công trình cũng ứng dụng nhiều loại vật liệu mới, công nghệ mới, hiện đại thời bấy giờ như thang máy, kính cường lực khổ lớn, hệ thống thông gió, hệ thống điều hòa không khí, hệ thống phòng cháy chữa cháy, hệ thống thông tin liên lạc…
Đi vào bên trong Dinh, tất cả các đường nét kiến trúc đều dùng đường ngay sổ thẳng, các hành lang, đại sảnh, các phòng đều lấy câu chính đại quang minh làm gốc.
Phòng Khánh tiết
Phòng đại yến với gam màu nâu vàng chủ đạo, tạo cảm giác sang trọng và ấm cúng.
Phòng họp nội các
Phòng tiếp khách nước ngoài của tổng thống Việt Nam Cộng Hoà
Phòng tiếp khách trong nước của tổng thống Việt Nam Cộng Hoà
Phòng tiếp khách của Phó tổng thống Việt Nam Cộng Hoà
Phòng trình quốc thư được trang trí đẹp mắt. Đây là phòng để Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tiếp đại sứ các nước đến trình ủy nhiệm thư. Nội thất do họa sĩ Nguyễn Văn Minh thực hiện theo phong cách Nhật Bản. Điểm nhấn là bức tranh sơn mài với tên gọi “Bình Ngô đại cáo” được ghép thành từ 40 mảng tranh, miêu tả cuộc sống thanh bình của người dân Việt Nam thế kỷ 15.
Phòng làm việc của Tổng thống Việt Nam Cộng hoà
Phòng làm việc của Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hoà
Phòng của Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ
Thư viện kết hợp phòng đọc sách
Phòng giải trí
Các phòng chức năng công cộng đều có hệ thống hành lang lớn ở hai phía
Một góc nghỉ ở hành lang trên lầu
Khu hầm bí mật của Tổng thống VNCH dài 72,5m, rộng từ 0,8 đến 22,5m. Các phòng trong hầm được liên kết bằng những lối nhỏ, đúc bê tông, tường bọc thép dày 5mm có thể chịu được bom 500kg. Đây là nơi ở và làm việc của Tổng thống VNCH khi bị Quân đội nhân dân Việt Nam công kích.
Khu bếp ăn
Sân đáp trực thăng tại Dinh
Trong khuôn viên phía sau Hội trường Thống Nhất (trước năm 1975 là Dinh Độc Lập, thời Pháp tên Norodom) có dinh thự cổ xây dựng cùng khoảng thời gian với Dinh, trong thế kỷ 19. Toà nhà này là công trình phụ trong khuôn viên Dinh, hiện chưa rõ thời gian xây dựng cụ thể và chức năng ban đầu. Từ 1954, khi người Pháp rút khỏi Việt Nam, nơi đây từng là trụ sở Đảng Dân chủ của chính quyền Sài Gòn. Sau năm 1975, dinh thự không được sử dụng thường xuyên. Năm 2018 đến nay toà nhà mở cửa cho khách tham quan qua hoạt động trưng bày chủ đề “Từ Dinh Norodom đến Dinh Độc Lập”, nói về dự hình thành, phát triển cùng những biến cố lịch sử của Dinh.
Toà nhà xây kiến trúc Pháp đặc trưng với mái ngói đỏ, nước sơn vàng, nhiều cửa sổ gỗ. Ở các góc tường trang trí những phù điêu đắp nổi căn bản.
Toà nhà có diện tích khoảng 200 m2, vẫn còn khá nguyên vẹn sau hơn 100 năm tồn tại.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 10h45 ngày 30-4-1975 xe tăng mang số hiệu 843 của quân giải phóng thuộc Đại đội 4, Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn xe tăng 230, Quân đoàn 2 dẫn đầu đội hình đã húc nghiêng cổng phụ của Dinh Độc Lập. Tiếp đó, xe tăng mang số hiệu 390 đã húc tung cổng chính tiến thẳng vào Dinh. Đúng 11h30 cùng ngày, lá cờ quyết chiến, quyết thắng của cách mạng Việt Nam tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, kết thúc 30 năm chiến tranh gian khổ và anh dũng của dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN, quân và dân ta đã thực hiện được ý nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Bắc Nam sum họp một nhà. Tháng 11 năm 1975, Hội nghị Hiệp thương Chính trị Thống nhất hai miền Nam Bắc đã diễn ra tại đây. Sau hội nghị này, Dinh được đổi tên thành Hội trường Thống Nhất hay Dinh Thống Nhất. Năm 1976, Dinh được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa.
Trải qua thăng trầm lịch sử, dinh Độc Lập không chỉ là một “chứng nhân” lịch sử, là biểu tượng của sự hòa hợp, thống nhất đất nước mà còn là một bảo tàng kiến trúc tiêu biểu, niềm tự hào về kiến trúc – xây dựng của người Việt Nam.
——————————————
Hồng bảo Kỷ lục được hiểu là những công trình Kỷ lục được thực hiện trong một thời gian dài, tích hợp những giá trị về kiến trúc, thẩm mỹ, văn hóa… để hình thành nên cho mai sau những di sản, đồng thời góp phần viết tiếp những câu chuyện mà cha ông đã gây dựng, từ đó góp phần định vị những giá trị địa phương nói riêng và Việt Nam nói chung vươn tầm khu vực và thế giới, góp phần định hình, phát triển hình ảnh du lịch địa phương nói riêng và đất nước nói chung thông qua những công trình biểu tượng.
Hành trình tìm kiếm TOP 100 Hồng bảo Kỷ lục Thế giới tại Việt Nam được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam (VietKings) giao cho Trung tâm TOP Việt Nam triển khai và đề cử đến Viện Kỷ lục Thế giới (World Mark) với mong muốn góp phần nhận diện, định vị, quảng bá hình ảnh quốc gia – địa phương ra thế giới. Dự án là một hành trình dài hơi và có thể tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác trong mục tiêu chung tạo ra những thay đổi về kiến trúc cảnh quan hiện hữu và quan trọng hơn là góp phần tạo nên những giá trị chiều sâu về văn hóa điểm đến hay lịch sử gắn liền với điểm đến.