Là thủ phủ của triều đình nhà Nguyễn (triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam) hơn 1 thế kỷ, Cố đô Huế ngày nay là nơi lưu giữ vô vàn những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể mà theo thời gian, những tầng giá trị văn hóa càng được khai mở và công nhận. Thuộc Quần thể di tích Cố đô Huế – Di sản Văn hoá Thế giới, Văn Thánh Huế là một di tích có vị trí đặc biệt quan trọng, thể hiện tinh thần coi trọng học vấn và nhân tài dưới thời nhà Nguyễn.
Khi các chúa Nguyễn mở mang khai phá phương Nam, Văn Miếu được thiết lập ở Phú Xuân, tại làng Triều Sơn và được xem như Văn Miếu riêng của Đàng Trong, nhưng không rõ thời điểm xây dựng. Đến năm Canh Dần (1770) dưới triều của Định Vương Nguyễn Phúc Khoát, Văn Miếu được dời đến xã Long Hồ. Năm 1808, dưới triều vua Gia Long, nhà vua cùng triều đình đã quyết định chọn một quả đồi gần chùa Thiên Mụ, sát tả ngạn sông Hương để xây Văn Miếu (vị trí Văn Thánh Miếu hiện nay) và mở trường Quốc Tử Giám. Công việc xây dựng Văn Miếu được khởi công ngày 17/4/1808 đến ngày 12/9/1808 thì hoàn thành. Ngôi miếu cũ được giữ lại để làm Khải Thánh Từ (miếu thờ cha, mẹ Khổng Tử). Cũng là Văn Miếu, nhưng ở Huế thì Văn Miếu được gọi là Văn Thánh Miếu, ngôi miếu thờ vị Thánh về Văn, người được hậu thế tôn vinh là “Vạn Thế Sư Biểu”, (Người thầy của muôn đời).
Văn Miếu Huế vào năm 1965 (Ảnh: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I)
Mặt tiền Văn Thánh Miếu quay mặt về hướng nam, nhìn ra dòng sông Hương thơ mộng. Toàn bộ khuôn viên Văn Thánh Miếu hình vuông cạnh là 160m, xung quanh có la thành bao bọc. Bên trong có chừng 50 công trình kiến trúc lớn, nhỏ. Điện thờ chính trong Văn Thánh Miếu là đức Khổng Tử và Tứ Phối, thập nhị triết. Đông vu và Tây vu thờ thập nhị Hiền và các tiên nhỏ; Trần Trù; Trần Khố; Nhà Tổ Công… các công trình đều được kết cấu mái bằng gỗ quý. Kiến trúc và các đồ tự khí đều mang tính đăng đối, uy nghi.
Đại Thành Môn là công trình kiến trúc còn sót lại mà vẫn giữ nguyên được nét nổi bật của kiến trúc cung đình ngày xưa. Cổng được xây dựng hoành tráng và nổi bật, thể hiện sự khéo léo và tài tình của người xây dựng. Trải qua bao biến bố, Đại Thành Môn vẫn đứng vững hiên ngang, mang đậm dấu ấn của thời gian với những bức tường bám đầy rêu xanh.
Phía ngoài cổng Đại thành là hai dãy gồm 32 tấm bia, khắc tên 293 vị Tiến sĩ triều Nguyễn bắt đầu từ khoa thi đầu tiên năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đến khoa thi cuối cùng 1919 được khắc tên họ, năm sinh, quê quán vào bia. Tất cả 32 bia đều có rùa đội bia và bằng đá cẩm thạch. Bia tiến sĩ ở đây không to lớn bằng bia ở Văn Miếu tại Hà Nội nhưng đều đặn hơn, dạng thức và trang trí sinh động hơn.
Hai hàng bia đá Tiến sĩ gồm 32 tấm bia ghi danh 293 vị Tiến sĩ triều Nguyễn, bắt đầu từ khoa thi đầu tiên năm Minh Mạng thứ 3 (năm 1822) đến khoa thi cuối cùng vào năm Khải Định thứ 4 (năm 1919).
Trước sân miếu có 2 nhà bia, bên phải có tấm bia khắc bài văn bia của vua Minh Mạng (dựng vào ngày 17/3/1836) với nội dung: “Thánh tổ Nhân Hoàng Đế Dụ: Cung giám bất đắc liệt tấn thân” dụ về việc: Thái giám không được liệt vào hạng quan lại; Bên trái là bài dụ của vua Thiệu Trị (dựng ngày 02/12/1844) với nội dung “Hiến tổ chương Hoàng Đế dụ: Ngoại thích bất đắc thân chính” nghĩa là: Bà con bên ngoại của vua không được tham gia chính quyền.
Bên cạnh Đại Thành Môn và 32 bia đá tiến sĩ thì một công trình kiến trúc vẫn còn sót lại cho đến ngày này chính là Linh Tinh Môn. Cửa Linh Tinh hướng ra dòng sông Hương thơ mộng, được thiết kế bao gồm 4 trụ xây bằng gạch, phía bên trên được trang trí pháp lam vô cùng nổi bật và tinh xảo. Ở giữa có tấm biển, phần mặt trước được đề bốn chữ Hán “Đạo Tại Lưỡng Gian” (có nghĩa là đạo giữa trời đất), còn phần mặt sau đề bốn chữ đối ứng “Trác Việt Thiên Cổ” (có nghĩa là vượt cao ngàn xưa).
Trước cổng Văn miếu, gần bờ sông Hương có dựng cửa Linh Tinh Môn gồm bốn trụ xây bằng gạch, phần trên trang trí pháp lam.
Văn Thánh Miếu Huế dưới triều nhà Nguyễn được coi là Văn Miếu riêng của xứ Đàng Trong. Dưới thời vua Minh Mạng và vua Thiệu Trị, Văn Thánh Miếu được nhiều lần tu sửa, đã phần nào phản ánh được thời kỳ thịnh trị của Nho giáo đối với nhà nước phong kiến tại Việt Nam cũng như thể hiện sự tiếp nối mạch nguồn truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của dân tộc.
Ngày nay, Văn Miếu Huế đã trở thành một di tích đánh dấu thời kỳ thịnh trị nhất của Nho giáo- thời kỳ vương triều Nguyễn dùng Nho học làm phương tiện trợ giúp đắc lực để thiết lập quyền thống trị trên toàn đất nước. Nho giáo tuy không còn là quốc đạo nhưng những tư tưởng về đạo đức và lối sống của nhà Nho, kết hợp với bản sắc văn hóa truyền thống đã kết tinh thành nền tảng vững chắc trong đời sống tinh thần của người Việt Nam hôm nay.
———————————————————————–
Hành trình TOP Việt Nam – 50 TOP các điểm đến hấp dẫn của Việt Nam được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam (VietKings) và Trung tâm TOP Việt Nam triển khai từ và công bố dưới tiêu chí và góc nhìn của Ban quản lý hành trình Top với mục tiêu quảng bá các giá trị thiên nhiên, văn hóa, lịch sử và con người Việt Nam đến bạn bè trong nước và quốc tế, đồng thời kích cầu du lịch.
Mỗi tuần, các bài công bố sẽ được công bố rộng rãi trên hệ thống trang truyền thông chính thức của Tổ chức Kỷ lục Việt Nam – VietKings. Ban quản lý hành trình rất mong nhận được sự quan tâm theo dõi của bạn đọc trong và ngoài nước nhằm tiếp tục quảng bá và tôn vinh các điểm đến hấp dẫn của Việt Nam.
Mọi thông tin xin liên hệ xin gửi về:
TỔ CHỨC KỶ LỤC VIỆT NAM (VIETKINGS) – TRUNG TÂM TOP VIỆT NAM (TOPPLUS)
Địa chỉ: 1 Đặng Văn Ngữ, phường 10, Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh
Liên hệ: Ms Phi – 0333 108 555
Email: noidungtopplus@gmail.com
Website: www.kyluc.vn/ www.topplus.vn