Nằm cách trung tâm thành phố Huế 35km về hướng Bắc, làng cổ Phước Tích nay thuộc xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, nằm giáp ranh giữa 2 tỉnh Thừa Thiên-Huế và Quảng Trị.
Theo sử sách, Phước Tích được thành lập từ năm 1470 dưới thời Lê Thánh Tông và được bao bọc hầu như toàn bộ bởi dòng sông Ô Lâu huyền thoại, nước sông luôn trong xanh khiến nơi đây gần như một hòn đảo, quanh làng có di tích 12 bến nước tượng trưng cho 12 con giáp. Tên gọi đầu tiên của làng là Phúc Giang, như mong muốn một vùng gần sông nước nhiều phúc lộc. Đến thời Tây Sơn, Phúc Giang được đổi thành Hoàng Giang, để nhớ đến dòng họ khai canh lập làng. Đến đời Gia Long, làng được đổi tên thành Phước Tích, như là mong muốn của người dân được tích lũy phúc đức cho con cháu.
Phước Tích là một ngôi làng cổ, điển hình của người Việt ở miền Trung. Trải qua hơn 500 năm tồn tại, kiên cường vượt qua các cuộc chiến tranh và sự tàn phá của thiên nhiên, kiến trúc làng cổ Phước Tích vẫn giữ gìn được gần như nguyên vẹn vẻ đẹp ban sơ trong đời sống sinh hoạt làng quê Việt Nam với không gian yên bình tĩnh lặng, phong cảnh hữu tình yên ả có cây đa, bến nước, sân đình… Nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa miền Trung – PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh đã nhận xét: “Rất hiếm có làng nào ở miền Trung chiến tranh bom đạn cày xới cả một thời gian dài nhưng lại giữ được nét cổ kính về các công trình kiến trúc nhà cửa, đền miếu, cây cối như ngôi làng Phước Tích”. Không gian cảnh quan của làng Phước Tích rất khác so với các thôn làng phía Bắc và điển hình cho hầu hết thôn làng Bắc Trung Bộ. Điều đặc biệt là những công trình kiến trúc ở Phước Tích không bị bao bọc bởi những tường gạch hun hút như ở miền Bắc, mà được hòa mình vào cảnh vật thiên nhiên thơ mộng: dòng sông hiền hòa, cây cối xanh tươi với những hàng chè tàu, những rặng tre, những cây cổ thụ có tuổi đời gắn với tuổi làng. Cấu trúc không phân chia đó đã tạo nên một vùng xanh liên hoàn, một khuôn viên lớn cấu thành bởi các khuôn viên nhỏ – hộ gia đình. Cấu trúc và tổ chức không gian làng Phước Tích có thể được coi là điển hình cho mô hình cư trú nơi thôn quê của người Việt ở vùng đất Bắc Trung Bộ, đó là cấu trúc mở với những căn nhà vườn.
Ngoài những nét chung của nhà rường truyền thống xứ Huế, nhà rường ở Phước Tích còn có nhiều nét rất riêng. Dưới bàn tay tài hoa của những người thợ chạm khắc làng mộc Mỹ Xuyên nổi tiếng gần đó, các bộ phận của nhà rường như vì kèo, xuyên, trách, đố, liên ba, cửa bàng khoa… được chạm trổ cực kỳ công phu và tinh tế.
Làng Phước Tích cho đến nay vẫn còn lưu giữ một kho tàng di sản văn hóa vật thể khá đồ sộ. Trong số hơn 120 nóc nhà của làng hiện vẫn còn gần 30 ngôi nhà cổ (đa số là loại nhà rường cổ ba gian hai chái), 10 nhà có giá trị đặc biệt, các ngôi nhà này đều có tuổi thọ trên 100 năm, lại nằm liền kề nhau, chỉ cách nhau bằng khu vườn. Bên cạnh nhà dân là hệ thống nhà thờ họ, phái, hiện có hơn 10 nhà thờ còn bảo lưu theo kiểu kiến trúc nhà rường. Ngoài ra, còn có các công trình kiến trúc tín ngưỡng khá phong phú: Đình làng, Chùa, miếu Cây Thị (miếu Bà), miếu Quảng Tế, miếu Liễu Hạnh, miếu Ngũ Hành, miếu Vua, miếu Cô Hồn, miếu ông Cọp, miếu Đôi, Văn Thánh…
Vẻ đẹp trường tồn theo thời gian được lưu giữ tại làng cổ Phước Tích
Miếu Cây Thị linh thiêng và cây thị đã hơn 500 năm tuổi
Dòng Ô Lâu trong xanh ôm trọn lấy rồi tô vẽ thêm cho Phước Tích đẹp như một bức tranh. Đầu làng là Miếu Đôi linh thiêng đã tồn tại hơn 700 năm. Gọi là Miếu Đôi vì có 2 ngôi miếu giống hệt nhau được xây dựng làm nơi thờ tự hai ông tổ nghề gốm của làng. Miếu bên phải thờ Khai Canh, bên trái thờ Đào Nghệ (Bổn Nghệ). Cột mốc trên 700 năm ở Miếu Đôi cũng là chừng ấy năm nghề gốm có mặt ở làng Phước Tích. Và cũng chính nghề gốm đã đem lại sự giàu có cho cư dân trong làng. Thời vàng kim, gốm làng Phước Tích được đem đi buôn bán khắp các tỉnh miền Trung. Bờ sông Ô Lâu có đến 12 bến nước tấp nập đưa gốm lên thuyền đi muôn nơi. Thời ấy, Phước Tích có hơn 10 lò gốm đỏ lửa suốt ngày đêm đem lại sự giàu có và tiếng tăm qua bao thế hệ. Gốm ở Phước Tích được nặn bằng tay, nấu thủ công và không tráng men nên không cái nào giống cái nào. Sản phẩm gốm thủ công ở Phước Tích còn được dùng đồ dâng lên vua chúa nhà Nguyễn. Ngày nay, gốm ở Phước Tích không còn tấp nập ở bến Ô Lâu để ngược xuôi muôn nơi. Gốm Phước Tích đã chuyển sang một hướng rẽ mới, hướng để du khách trải nghiệm tham quan. Nghề tổ truyền của làng, thời nào gốm cũng góp phần làm cho Phước Tích hưng thịnh.
Nghề gốm nổi tiếng với kỹ thuật nung bằng rơm, tạo ra những sản phẩm nổi danh được ví qua câu thơ “Om Phước Tích ngon cơm Hoàng đế, Sen Hà Trì quý thể Phú Xuân”
Ngày 09/09/2019, Làng cổ Phước Tích được công nhận là điểm du lịch của tỉnh Thừa Thiên Huế theo Quyết định số 2186/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, tạo điều kiện hồi sinh và phát huy các giá trị văn hóa của ngôi làng cổ độc đáo bậc nhất Việt Nam.
——————————————
Hồng bảo Kỷ lục được hiểu là những công trình Kỷ lục được thực hiện trong một thời gian dài, tích hợp những giá trị về kiến trúc, thẩm mỹ, văn hóa… để hình thành nên cho mai sau những di sản, đồng thời góp phần viết tiếp những câu chuyện mà cha ông đã gây dựng, từ đó góp phần định vị những giá trị địa phương nói riêng và Việt Nam nói chung vươn tầm khu vực và thế giới, góp phần định hình, phát triển hình ảnh du lịch địa phương nói riêng và đất nước nói chung thông qua những công trình biểu tượng.
Hành trình tìm kiếm TOP 100 Hồng bảo Kỷ lục Thế giới tại Việt Nam được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam (VietKings) giao cho Trung tâm TOP Việt Nam triển khai và đề cử đến Viện Kỷ lục Thế giới (World Mark) với mong muốn góp phần nhận diện, định vị, quảng bá hình ảnh quốc gia – địa phương ra thế giới. Dự án là một hành trình dài hơi và có thể tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác trong mục tiêu chung tạo ra những thay đổi về kiến trúc cảnh quan hiện hữu và quan trọng hơn là góp phần tạo nên những giá trị chiều sâu về văn hóa điểm đến hay lịch sử gắn liền với điểm đến.