Làng cổ Đông Sơn thuộc phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hóa là một ngôi làng nhỏ nằm bên bờ con sông Mã huyền thoại. Ít có một làng quê Việt Nam nào có bề dày lịch sử nghìn năm và quá trình phát triển liên tục như làng cổ Đông Sơn. Làng được xem như một ”niên biểu” về sự phát triển liên tục từ thuở các vua Hùng dựng nước cho đến thời hiện đại, gắn liền với những bước thăng trầm của lịch sử vùng đất xứ Thanh.
Làng Đông Sơn cũng được xem là một trong những ngôi làng có lịch sử phát triển lâu đời nhất của Việt Nam. Theo nhiều tài liệu ghi chép lại, từ khoảng giữa những năm 1920, các nhà khoa học phương Tây đã phát hiện ra nhiều di tích khảo cổ của văn hóa Đông Sơn với niên đại hơn 2500 năm.
Nơi đây cũng là địa điểm đầu tiên khai quật được những chiếc trống đồng Đông Sơn cổ được làm từ thời vua Hùng cách đây hàng nghìn năm. Kể từ đó, làng Đông Sơn được xem là cái nôi của một nền văn hóa nổi tiếng trên thế giới. Vào năm 1924, sau khi một người nông dân có tên Nguyễn Văn Lắm tìm thấy một số món đồ đồng ở bờ sông Mã, người Pháp đã ngay lập tức cho khai quật làng cổ Đông Sơn và tìm ra nhiều cổ vật có giá trị. Năm 1934, nhà nghiên cứu người Áo R.Heine Geldern đã đề nghị công nhận nền “văn minh Đông Sơn” là nền văn minh tiêu biểu của Việt Nam thời kỳ đầu dựng nước và đến nay, tên làng Đông Sơn đã trở thành tên gọi cho một nền văn hóa khảo cổ học nổi tiếng thế giới – Văn hóa Đông Sơn.
Trải qua sự khắc nghiệt của thời gian và thời tiết, làng cổ Đông Sơn vẫn giữ đậm chất làng quê truyền thống Bắc Bộ với cấu trúc “cây đa, giếng nước, sân đình”. Hệ thống giao thông được tổ chức với trục đường chính ở giữa làng rồi chia nhiều nhánh rẽ vào xóm nhỏ. Đó là những con đường gạch lát chỉ đỏ dài hun hút, nối những mái nhà gần nhau, bên cạnh những bức tường đá rêu xanh. Điều thú vị nhất của ngôi làng này chính là những con ngõ được đặt tên mang ý nghĩa của phẩm giá con người. Đó là ngõ Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, có biển hiệu rõ ràng, như truyền đi thông điệp về nét đẹp văn hóa của người dân trong làng.
Làng vốn được chia thành 6 làng nhỏ, với làng Văn – người học chữ Nho; làng Võ – người đi lính; làng Nhạc – người chơi nhạc; làng Hộ – người trông coi Văn Thánh… Đến nay, người trong làng vẫn tuân thủ những hương ước của làng, với những quy định cụ thể về tang tế, hôn lễ, tế tự, kết chạ…
Toàn bộ ngôi làng hiện nay vẫn bảo tồn được rất nhiều ngôi nhà cổ với niên đại hàng trăm năm. Trong đó đặc biệt nhất phải nói đến căn nhà của gia đình ông Lương Trọng Duệ đã được xây dựng từ cách đây hơn 200 năm. Được xây dựng từ đầu Triều Nguyễn, dù qua 3 lần tôn tạo chủ yếu là phần gỗ bị mối mọt, nhưng phần kết cấu vật liệu của nhà vẫn được giữ nguyên vẹn với thượng lương, đường tàu làm bằng gỗ lim vững chắc, các xà được làm theo kiểu chồng rường, kẻ, bẩy. Các kèo, xà, đầu cột được chạm khắc hình cúc dây, vân mây tinh tế. Nhà cổ có 5 gian, tường được xây bằng gạch chỉ mỏng, chính giữa có mái hiên, phía dưới có rèm trúc hình vuông che phủ cửa nhà. Bức rèm trúc không chỉ nhằm che chắn nắng gió mà còn tạo thành vách ngăn hướng đi trực diện vào bàn thờ, buộc người ra, vào nhà phải đi từ hai bên, thể hiện sự tôn nghiêm, lòng thành kính đối với tổ tiên. Đây chính là quan niệm phong thủy truyền thống của người Việt xưa. Ngôi nhà này cũng đã được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh, thu hút rất đông du khách đến tham quan.
Trong không gian văn hóa làng cổ Đông Sơn, du khách không thể bỏ qua quần thể di tích, danh thắng nổi tiếng, như: đền thờ Đệ nhị Thần hoàng Trịnh Thế Lợi, Cẩm hoa thị vệ đời Lê, người có công lập nên làng cổ Đông Sơn, khi mất được người dân chôn cất tại gò cao nhất trong làng; Chùa Phạm Thông xưa kia có tượng Phật Thích Ca bằng đồng đen; Giếng cổ hơn 2.000 năm tuổi… Trong đó, đền thờ Đức thánh cả Lê Uy và Trần Khát Chân đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia.
Đền thờ Đệ Nhị Thần Hoàng Trịnh Thế Lợi là Cẩm Hoa thị vệ thời Lê, ngài có công lập nên làng Đông Sơn và được người dân suy tôn, chôn cất tại gò cao nhất trong làng.
Đông Sơn Cổ Tự (hay còn gọi là chùa Phạm Thông, chùa Đông Sơn) xưa kia chùa được xây dựng trên diện tích khuôn viên gần 3.000m2, gồm Cổng Tam quan, Nhà điện chính; Hậu cung nhưng đã bị bom Mỹ phá sập. Hiện chùa còn lưu giữ tượng Phật Di Đà bằng đá ngôi trên bệ đá chân quỳ hình vuông.
Hiện nay, làng đã nằm trong khu du lịch Hàm Rồng, điểm và tuyến du lịch hành trình xứ Thanh của tỉnh. Cư dân làng chính là chủ thể bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa cũng chính là người tham gia làm du lịch. Một làng quê hội tụ đủ 5 di tích về khảo cổ, danh thắng, lịch sử văn hóa, cách mạng kháng chiến và kiến trúc đủ khiến ai sinh ra từ đây cũng tự hào.
——————————————
Hồng bảo Kỷ lục được hiểu là những công trình Kỷ lục được thực hiện trong một thời gian dài, tích hợp những giá trị về kiến trúc, thẩm mỹ, văn hóa… để hình thành nên cho mai sau những di sản, đồng thời góp phần viết tiếp những câu chuyện mà cha ông đã gây dựng, từ đó góp phần định vị những giá trị địa phương nói riêng và Việt Nam nói chung vươn tầm khu vực và thế giới, góp phần định hình, phát triển hình ảnh du lịch địa phương nói riêng và đất nước nói chung thông qua những công trình biểu tượng.
Hành trình tìm kiếm TOP 100 Hồng bảo Kỷ lục Thế giới tại Việt Nam được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam (VietKings) giao cho Trung tâm TOP Việt Nam triển khai và đề cử đến Viện Kỷ lục Thế giới (World Mark) với mong muốn góp phần nhận diện, định vị, quảng bá hình ảnh quốc gia – địa phương ra thế giới. Dự án là một hành trình dài hơi và có thể tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác trong mục tiêu chung tạo ra những thay đổi về kiến trúc cảnh quan hiện hữu và quan trọng hơn là góp phần tạo nên những giá trị chiều sâu về văn hóa điểm đến hay lịch sử gắn liền với điểm đến.