Hai lúa” cố đô
Đến xã Quảng An, huyện Quảng Điền, TT – Huế hỏi ông Phụ “sắt vụn” tức ông Trần Quang Phụ (61 tuổi) thì từ già đến trẻ chỉ ngay nơi bạn cần đến. Bởi lẽ, ông Phụ không chỉ là người duy nhất trong thôn An Xuân biết sữa chữa, lắp ráp máy móc mà ông còn tự chế tạo nhiều loại máy “độc quyền” mà chưa nơi nào làm ra được.
Năm 1968, vì hoàn cảnh khó khăn ông phải bỏ học, một mình lên thành phố xin học nghề sửa máy để mưu sinh. Với khả năng của mình, sau 2 năm ông đã có thể tự lập nghiệp. Trở về quê hương, thấy bà con trong làng đa phần làm nghề nông bằng phương pháp thủ công, năng suất không cao, đời sống lại khó khăn. Ông liền nghĩ: “Tại sao mình không chế tạo máy giúp bà con… ?”, thế là xưởng cơ khí của ông Phụ “sắt vụn” ra đời, xưởng của ông vừa nghiên cứu vừa sửa chữa, chế tạo các loại máy móc phù hợp với địa hình, thổ nhưỡng địa phương.
Ông Trần Quang Phụ bên xưởng cơ khí của mình.
Năm 1972, ông đã tự chế thành công máy múc hoàn toàn từ sắt phế liệu đầu tiên ở Huế với công dụng vượt qua cả loại máy của Nhật. Giải thích về chiếc máy múc này, ông Phụ nói ngắn gọn: “Máy của Nhật chỉ múc xa được 5m, nhưng máy của tui múc xa 20m và cấu tạo nhỏ gọn hơn”.
Sau đó, ông chế tạo máy bơm nước với năng suất gấp 2 lần máy của Nhật, thuận tiện trong việc hút và đẩy bùn ở tầm cao. Năm 1978, ông lại làm ra máy phun lúa đặc biệt không ra lúa theo rơm, lúa dài mấy cũng không bị quấn, loại máy này rất thích hợp với điều kiện sản xuất của bà con vùng sâu, vùng xa địa hình đồi núi.
Tháng 6 tới, ông sẽ tiến hành chế tạo tàu đổ đất bằng thủy lực khổng lồ đi được cả trên cạn và đây cũng là chiếc máy mà ông tâm đắc nhất sau nhiều năm nghiên cứu, giờ tiến hành lắp ráp.
Ông kể, tất cả các loại máy của mình làm ra có đặc điểm là đều tận dụng nguồn nguyên liệu chủ yếu là sắt vụn nên giá rất rẻ phù hợp với điều kiện kinh tế nông dân.
Không những thế, máy ông làm ra không phải dựa vào bản vẽ thiết kế của máy Nhật để cải tiến mà do ông hoàn toàn tự nghĩ ra. Theo ông Phụ, máy làm ra có năng suất vượt trội vì nó rất phù hợp với điều kiện về địa hình, khí hậu của Việt Nam, đặc biệt là miền Trung. Đã có nhiều doanh nghiệp nhà nước và tư nhân đến đặt hàng máy của ông với số lượng lớn.
Định hình một thương hiệu
Không những giỏi chế tạo máy, mà xưởng cơ khí của ông đã tạo công ăn việc làm cho hàng trăm lao động trong và ngoài tỉnh. Người lao động làm việc tại đây có thu nhập từ 3 – 5 triệu đồng/ tháng (gồm cả ăn, ở), còn ông thu nhập mỗi năm trên dưới 1,5 tỷ đồng.
Ông Trần Quang Phụ đang hướng dẫn thợ học việc.
Hơn 20 năm, lăn lộn với nghề, ông đã chế tạo ra hàng trăm loại máy để phục vụ bà con nông dân, và đào tạo được hàng ngàn thợ lành nghề. Xưởng máy của ông đã trở thành một địa chỉ quen thuộc của bà con nơi đây, thậm chí là nhiều thợ giỏi nơi khác đến để học hỏi, trao đổi.
Vinh dự nhất là năm 2003, ông đã được mời ra Hà Nội dự hội nghị những người nông dân giỏi sáng tạo. Tại đây, khi thấy các loại máy của ông, ngay cả ông Hai Lúa ở Tây Ninh (người đại diện cho trí tuệ sáng tạo tuyệt vời của người dân Việt Nam khi chế tạo thành công máy bay) cũng ngả mũ thán phục thừa nhận không thể nào làm được các loại máy này như ông.
Giờ đây, rất nhiều cơ quan, đơn vị lớn đến mời ông làm việc: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, các vùng Tây Nguyên… thậm chí cả những công trình mà các nhà thầu “chào thua” thì ông cũng nhận làm thành công. Ngay cả các công trình trọng điểm ở Huế như: nạo vét sông Ngự Hà, sông Đông Ba ở độ sâu hơn 40m cũng phải nhờ đến ông mới hoàn thành, hoặc đóng phà ở Phá Tam Giang. Gần đây nhất, ông Phụ đã đánh bật được các đồng nghiệp trong việc hợp tác cùng Công ty vật ty nông nghiệp tỉnh khai thác than bùn ở hai xã Phong Hòa, Phong Thu (Phong Điền) qua nhiều năm nay, đây là công trình mà nhiều doanh nghiệp ở trong Nam ra tiến hành khai thác nhưng đều thất bại.
Ông chia sẻ: “Than bùn ở đây rộng, mềm, dễ lún. Để thành công thì phải kết nối mặt sà lan rộng, chịu lực gấp 4 đến 5 lần trọng lượng và độ nhún khi xe xúc lực đang xúc bùn. Hơn nữa, xe xúc phải cải tiến có tính kỹ đến độ lực của trục ly tâm, chiều dài cần xoay, độ nhún…”
Với thành công của mình, có thể nói ông Phụ không chỉ là niềm tự hào của bà con thôn An Xuân nói riêng mà còn là niềm tự hào của người dân Thừa Thiên – Huế nói chung trong việc khẳng định và đưa thương hiệu “Cố đô” bay xa ra khắp cả nước.
Nguyễn Tiến Nhất
Theo Pháp luật và Xã hội