Thất Phủ cổ miếu xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, Đồng Nai lúc đầu có tên là miếu Quan Đế, được khai tạo vào năm 1684 và sau đổi tên thành Thất Phủ cổ miếu. Đây là ngôi miếu của người Hoa sớm nhất ở Nam Bộ, gắn với cuộc di dân do Trần Thượng Xuyên đưa vào định cư ở Cù lao phố Biên Hòa, đến nay đã hơn 300 năm tồn tại. Miếu thờ Quan Công, do đó còn được người dân gọi là chùa Ông. Chùa Ông là sự giao thoa văn hóa Hoa – Việt hơn 300 năm trên vùng đất Nam bộ.
Quan Công được xem như biểu trưng cho những phẩm chất rất gần gũi với đạo đức truyền thống người Việt theo tư tưởng Nho giáo: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng, liêm…
Trần Thượng Xuyên đã kết hợp với cộng đồng người Việt đến vùng đất này trước đó, khai khẩn, mở mang đất đai và tạo lập Nông Nại Đại Phố – một thương cảng đô hội, phồn thịnh bậc nhất phương Nam lúc bấy giờ. Sau 6 năm an cư trên đất Việt, tướng quân Trần Thượng Xuyên đã cùng cộng đồng người Hoa tạo dựng nên cơ sở tín ngưỡng Thất phủ cổ miếu. Được biết, Thất phủ cổ miếu này do bảy phủ người Hoa đóng góp để tạo dựng, bao gồm: Phúc Châu, Chương Châu, Tuyền Châu, Quảng Châu, Triều Châu, Quỳnh Châu và Ninh Ba. Thất phủ cổ miếu là cơ sở văn hoá đầu tiên của cộng đồng người Hoa ở Đồng Nai nói riêng và cả khu vực Nam bộ nói chung. Ngôi chùa này là nhân chứng đánh dấu cột mốc lịch sử về thời kỳ khẩn hoang, lập nghiệp và cùng bảo vệ, phát triển vùng đất phương Nam của cộng đồng người Hoa.
Theo Trịnh Hoài Đức ghi trong Gia Định thành thông chí cho biết: “Tháng 4 năm Giáp Tý (1684) bắt đầu xây dựng miếu Quan Đế ở Cù lao phố tại phía Đông ngã ba đường, mặt trông ra sông Phước Giang, điện vũ nguy nga, tượng thờ đắp cao hơn một trượng, phía sau là điện thờ Quan Thế âm bồ tát, phía ngoài có tường gạch cao bao quanh, bốn góc có bốn con lân đá ngồi xổm. Hai bên Đông Tây đường lớn là hai hội quán Phúc Châu và Quảng Đông làm nơi giao tiếp với lái buôn nước ngoài.”
Thất Phủ cổ miếu nằm ở một địa thế rất đẹp, mặt tiền quay về hướng Tây – Nam nhìn ra sông Đồng Nai, trước cửa tam quan là một cây si cổ thụ lớn, quanh năm toả bóng rợp cả vùng sân. Chùa có quy mô kiến trúc “tứ hợp viện” theo truyền thống chùa chiền Trung Hoa, với các thành tố chính: tiền điện, phương đình và chính điện. Kiến trúc và sự bài trí ở đây thể hiện được trình độ kĩ thuật điêu luyện, khiếu thẩm mỹ tinh tế của nghệ nhân dân gian của người Việt và người Hoa.
Mặc dù đã được trùng tu nhiều lần nhưng chùa Ông Biên Hòa vẫn được giữ gần như trọn vẹn lối kiến trúc ban đầu. Đặc trưng của phong cách chùa chiền người Hoa là thiết kế theo hình chữ “Khẩu”, bố trí theo cấu trúc theo “nội công ngoại quốc”. Chùa bao gồm 1 tòa nhà ở chính giữa là chánh điện xây dựng hình chữ “Công”, hai bên là các công trình phụ gọi là đông lang và tây lang.
Thất phủ cổ miếu bên ngoài thiết kế một cánh cổng tam quan bằng đá sừng sững, bên trên ghi tên chùa viết bằng chữ Hán. Phần cổng lợp bằng mái ngói âm dương màu xanh vàng, chạm khắc tinh xảo hình hai chú rồng đang trong tư thế chầu long châu.
Cánh cổng sơn màu đỏ tươi bắt mắt, treo đèn lồng rực rỡ.
Đặc biệt, các đề tài trang trí như rồng chầu mặt trời, tứ linh, hoa điểu, cửu long, bát tiên, bách suốt, múa hát cung đình, rồng – mây, phù dung – phụng, dây hoa lá, sóng nước… được điêu khắc rất tinh vi, sắc sảo, toát lên vẻ đẹp điển hình của nghệ thuật dân tộc Trung Hoa.
Mái chùa sử dụng loại ngói âm dương đỏ thắm. Đầu mái gắn ống lưu ly theo phong cách truyền thống của chùa chiền Việt còn trên mái ngói trang trí những hình ảnh thể hiện đặc trưng văn hóa truyền thống Trung Hoa như tượng ông Nhật, bà Nguyệt và các lễ hội hát tuồng, đá cầu, múa cung đình…
Mặt tường của chùa Ông Biên Hòa được lát bằng một lớp gạch màu hồng giúp không gian sáng bừng lên, dưới ánh nắng càng trở nên lung linh.
Ngoài ra, đây cũng là nơi giao thoa văn hoá đất Việt, khi lưu giữ những thành tựu nghệ thuật của các nghệ nhân thuộc làng nghề chạm khắc đá Bửu Long ngày xưa. Trong đó, những di vật bằng đá granit vẫn trường tồn đến tận ngày nay.
Cặp rồng chầu mặt trời bằng đá Bửu Long được chạm khắc trước cổng chùa.
Bức tranh sống động được chạm khắc trên gỗ, treo trước cửa chính điện chính là câu chuyện Đức Ông Trần Thượng Xuyên đưa người Hoa vào vùng đất Biên Hoà lập nghiệp dưới sự phê chuẩn của chúa Nguyễn Phúc Tần.
Phía trước sân chùa có miếu thờ năm bà Ngũ Hành và phía sau thờ Quan Thế âm bồ tát cùng các phối linh tự Ngũ điện Diêm La Thiên Tử Bao (Bao Công), Thái Tuế Tinh Quân, Huyền Đàn Triệu Nguyên Soái, Thần Tài Âm Phủ/ Bạch Vô Thường…
Chánh điện chùa gồm có Tiền Điện, Trung Điện và Hậu Điện nối liền với nhau tạo thành một trục thẳng từ ngoài vào trong. Phần cột trụ, mái ngói cho đến cánh cửa đều có màu sắc đỏ lộng lẫy và nổi bật. Đặc biệt, mỗi cột đều được trang trí câu đối và hoành phi sơn son thếp vàng để ca ngợi uy danh của Quan Công. Cùng với đó là những bao lam, lọng, võng, liễn đối, khám thờ…đều được trạm trổ cực kỳ tinh xảo, thể hiện đúng tinh thần văn hóa người Hoa. Đặt ở giữa chánh điện là tượng Quan Công (tức Quan Thánh Đế Quân). Tượng rất trang nghiêm, mặc áo gấm xanh, toát lên vẻ đẹp oai phong. Bên cạnh đó là ban thờ Quan Bình và Châu Xương Hầu, còn hai gian thờ hai bên là dành cho Thiên Hậu Thánh Mẫu và Kim Hoa Nương Nương.
Di tích này từ Quan Đế miếu lúc khởi tạo đến Thất phủ cổ miếu ngày nay, không chỉ có mỗi sự thay đổi tên gọi mà còn được tái thiết trùng tu nhiều lần do công sức tiền bạc và tài trí của nhiều thế hệ đóng góp. Theo đó, ở mỗi thời điểm đều để lại những dấu ấn riêng. Kể từ khi tạo dựng đến nay, Thất phủ cổ miếu được trùng kiến và trùng tu nhiều lần vào các năm 1743, 1817, 1894… Năm 2009-2010 là đợt trùng tu lớn nhất của Thất phủ cổ miếu. Tuy nhiên, vẫn tuân thủ nguyên tắc phục chế theo nguyên mẫu, có tôn tạo nhưng không làm thay đổi kiến trúc vốn có của chùa. Chính vì vậy, dù hơn 300 năm tuổi và trải qua nhiều biến cố cùng thời gian, ngôi chùa này vẫn giữ được những nét đặc sắc riêng của cộng đồng người Hoa.
——————————————
Hồng bảo Kỷ lục được hiểu là những công trình Kỷ lục được thực hiện trong một thời gian dài, tích hợp những giá trị về kiến trúc, thẩm mỹ, văn hóa… để hình thành nên cho mai sau những di sản, đồng thời góp phần viết tiếp những câu chuyện mà cha ông đã gây dựng, từ đó góp phần định vị những giá trị địa phương nói riêng và Việt Nam nói chung vươn tầm khu vực và thế giới, góp phần định hình, phát triển hình ảnh du lịch địa phương nói riêng và đất nước nói chung thông qua những công trình biểu tượng.
Hành trình tìm kiếm TOP 100 Hồng bảo Kỷ lục Thế giới tại Việt Nam được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam (VietKings) giao cho Trung tâm TOP Việt Nam triển khai và đề cử đến Viện Kỷ lục Thế giới (World Mark) với mong muốn góp phần nhận diện, định vị, quảng bá hình ảnh quốc gia – địa phương ra thế giới. Dự án là một hành trình dài hơi và có thể tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác trong mục tiêu chung tạo ra những thay đổi về kiến trúc cảnh quan hiện hữu và quan trọng hơn là góp phần tạo nên những giá trị chiều sâu về văn hóa điểm đến hay lịch sử gắn liền với điểm đến.
Diệu Phi – VietKings (tổng hợp và biên tập, ảnh Internet)