Đền Trần Thương (đền Trần, đền thờ Đức Thánh Trần) là đền thờ Trần Hưng Đạo được dựng ngay phía trên phần đất ngày xưa Đức Thánh từng dùng làm kho lương phục vụ kháng chiến chống Nguyên – Mông lần 2. Phía trong đền là giếng ngọc, nơi táng nhục thể của Trần Hưng Đạo khi qua đời. Đền nằm bên bờ sông Hồng với khung cảnh nên thơ và bình yên.
Chữ Thương trong tiếng Hán cổ có nghĩa là kho lương thực, vì thế Trần Thương có nghĩa là kho lương của nhà Trần.
Dù đã qua bao năm tồn tại nhưng đến nay đền vẫn giữ được một vẻ đẹp nguyên sơ, trở thành dấu ấn lịch sử cũng như niềm tự hào của dân tộc ta. Mảnh đất Trần Thương trù phú đã được nhắc đến trong câu “Cá Nhân Đạo, gạo Trần Thương” và câu thơ khắc trên bức châm trong đền: “Đất Trần Thương lắm phúc, hoa quả bốn mùa xuân”. Ngày xưa Trần Thương cũng là trung tâm của 6 khe nước, có thể đi ngược từ sông Hồng ra Thăng Long hoặc xuôi về biển Đông khoảng 3km là đến khu lăng mộ nhà Trần.
Đây là thế đất “Hình nhân Bái Tướng” trong thế “Ngọa Nhân mỹ”, là người phụ nữ đẹp nằm phục bái Thần tướng, hay “Ngũ mã thất tinh” là 5 mã chầu ở nghi môn ngoại và nội – Thất tinh là 7 ngôi sao (Bắc Đẩu) chiếu về như Nam Tào, Bắc Đẩu, sao Văn Xương tinh, thủy tinh, mộc tinh, kim tinh, địa tinh.
Trần Thương nằm trên thế đất nơi 6 dòng sông nhỏ chụm đầu gọi là “lục đầu khê”. Do đó, Trần Hưng Đạo chọn khu vực này là một trong 6 địa điểm cất giữ kho lương vào năm 1285. Tương truyền năm xưa, trong cuộc chiến của quan quân nhà Trần chống Nguyên Mông lần 2, khi chiến thắng trở về, Trần Quốc Tuấn đã mở kho lương tổ chức khao quân và dân mừng chiến thắng.
Đền được xây dựng theo hình chữ Quốc vuông vắn, trên thế đất thiêng “hình nhân bái tướng” và xây theo kiểu “Tứ thủy quy đường”. Tổng thể kiến trúc cảnh, quan ngôi đền gồm nghi môn ngoại, nghi môn nội, năm tòa, 15 gian, chia thành ba cung: Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam và hai giải vũ, năm giếng,… tạo nên những điểm độc đáo riêng có của ngôi đền.
Ngôi đền gồm nghi môn ngoại, nghi môn nội, năm tòa, 15 gian, chia thành ba cung: Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam và hai giải vũ, năm giếng… tạo nên những nét độc đáo ít nơi nào giống được.
Đền có cửa chính cao hai tầng, tầng dưới uốn thành hình vòm trang trí hoa văn chung quanh. Tầng trên là gác chuông tám mái, treo một quả chuông lớn dùng để truyền tín hiệu cho vùng xung quanh.
Con đường chạy vòng quanh là hai tay ngai, bên Đông, bên Tây còn có hai giếng nước được gọi là hai “tai”. Nền trước cung Đệ tam có một giếng tròn mà dân gian gọi là “hố”, “khẩu”. Tất cả cấu trúc của đường, giếng tạo nên thế đất thiêng “hình nhân bái tướng”, “ngũ mã thất tinh”.
Đền Trần Thương có 5 giếng nước. Hai giếng lớn phía nam có tên là giếng nhũ không bao giờ cạn, hai giếng phía bắc gọi là hai giếng nhĩ như hai cái tai.
Ngay giữa nhà tiền đường và cung đệ nhị là một cái giếng được gọi là giếng khẩu (miệng), là trung tâm của ngôi đền. Vị trí này nước luôn giữ ở chừng mực, không đầy hơn cũng không cạn đi.
Phía nam của giếng khẩu chính là cửa của một hầm ngầm nơi có hai con nghê đá đứng canh cửa hầm. Người ta tìm thấy trong hầm có choé sứ, than củi hay vỏ trấu.
Theo một nhà nghiên cứu, giữa đền có một cái hố (giếng) là một dấu chỉ đặc biệt. Cũng có một số đền có kiểu cấu trúc như vậy nhưng đó là những đền theo Lão giáo.
Theo thứ tự từ ngoài đền vào trong, cung đầu tiên là cung Đệ tam, là nơi thờ Ban Công đồng và quan Ngũ Hổ, đồng thời cũng là nhà khách. Cung Đệ tam được xây dựng theo lối chồng rường, hai đầu xây bít đốc dật cấp, mái lợp ngói nam, mặt trước là dãy cửa bức bàn. Phía trên gian giữa có treo bức đại tự “Văn đức võ công”.
Tiếp đến là cung Đệ nhị, ban giữa thờ bá quan văn võ Trần Triều và gia tộc của Đức Thánh Trần, hai bên tả và hữu thờ quan Bắc Đẩu và quan Nam Tào. Cung Đệ nhị gồm năm gian, được xây cao hơn cung Đệ tam, lợp ngói ống cung đình đời Nguyễn, bờ nóc hai đầu hồi đắp hai con rồng lớn, phần giữa mái trên và mái dưới là các ô có đắp chữ Hán. Cung cuối cùng là cung Đệ nhất (hay còn gọi là Cung cấm). Ban giữa cung Đệ nhất thờ Đức Thánh Trần, hai bên trái và phải thờ bái vọng Đức Vương Phụ và Đức Vương Mẫu của Ngài. Cung này được lợp ngói ống, bộ cửa bức bàn gồm ba cửa được sơn son thếp vàng lộng lẫy.
Các cung bên trong đền có Đệ Nhất (hay còn gọi là Cung Cấm) với ban giữa thờ Đức Thánh Trần, hai bên trái và phải thờ bái vọng Đức Vương Phụ và Đức Vương Mẫu của Ngài và Đệ Nhị là nơi thờ gia nô công thần như Yết Kiêu, Dã Tượng. Tại đây những bức họa bát tiên hay tùng, cúc, trúc, mai được chạm khắc công phu.
Tiền đường là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của cộng đồng dân chúng, nơi đó có treo các sắc phong và những hoành phi câu đối với ý nghĩa nguyên bản, phía trước có các hàng chữ tượng hình mang ý nghĩa bí ẩn.
Giá trị đền Trần Thương còn được thể hiện ở phần trang trí kiến trúc với các đề tài, họa tiết được chạm khắc công phu như: lưỡng long chầu nguyệt, rồng bay, phượng múa, sóng nước, mây trời… tạo nên một bức tranh thiên nhiên vừa sống động, vừa cổ kính trang nghiêm hàm chứa triết lý dân gian.
Cùng với vẻ đẹp về công trình kiến trúc độc đáo, linh thiêng, đền Trần Thương còn lưu giữ một số hiện vật, đồ thờ có giá trị nghệ thuật cao như: hoành phi, câu đối, đại tự, ngai thờ, khám thờ, lục bình, bát hương, nghê đá, rùa đá…và chiếc kiếm bạc có vỏ làm bằng đồi mồi rất quý, chỉ được đưa ra thờ vào những ngày lễ hội.
Bên trong đền còn lưu trữ hàng trăm cổ vật có giá trị nghệ thuật cao và phong phú về thể loại như tượng thờ, bát bửu, 38 đạo sắc phong, hoành phi, câu đối, đại tự, ngai thờ, khám thờ, lục bình, bát hương, nghê đá, rùa đá… Đặc biệt thanh kiếm bạc vỏ đồi mồi có từ thời Đức Thánh Trần truyền lại hàng năm được đem ra lau chùi để bảo quản.
Với những giá trị về lịch sử, văn hóa đặc sắc, năm 1989 đền Trần Thương đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Ngày 23/12/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2367/QĐ-TTg xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật đền Trần Thương là Di tích Quốc gia đặc biệt. Cùng với giá trị lịch sử – văn hoá, đền Trần Thương còn mang đậm giá trị văn hoá tâm linh thông qua lễ hội. Lễ hội đền Trần Thương hằng năm được nhân dân mở từ ngày 20-8 Âm lịch đã trở thành một nét văn hóa tín ngưỡng lâu đời của người dân Hà Nam nói riêng và du khách thập phương nói chung.
——————————————
Hồng bảo Kỷ lục được hiểu là những công trình Kỷ lục được thực hiện trong một thời gian dài, tích hợp những giá trị về kiến trúc, thẩm mỹ, văn hóa… để hình thành nên cho mai sau những di sản, đồng thời góp phần viết tiếp những câu chuyện mà cha ông đã gây dựng, từ đó góp phần định vị những giá trị địa phương nói riêng và Việt Nam nói chung vươn tầm khu vực và thế giới, góp phần định hình, phát triển hình ảnh du lịch địa phương nói riêng và đất nước nói chung thông qua những công trình biểu tượng.
Hành trình tìm kiếm TOP 100 Hồng bảo Kỷ lục Thế giới tại Việt Nam được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam (VietKings) giao cho Trung tâm TOP Việt Nam triển khai và đề cử đến Viện Kỷ lục Thế giới (World Mark) với mong muốn góp phần nhận diện, định vị, quảng bá hình ảnh quốc gia – địa phương ra thế giới. Dự án là một hành trình dài hơi và có thể tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác trong mục tiêu chung tạo ra những thay đổi về kiến trúc cảnh quan hiện hữu và quan trọng hơn là góp phần tạo nên những giá trị chiều sâu về văn hóa điểm đến hay lịch sử gắn liền với điểm đến.
Diệu Phi – VietKings (tổng hợp và biên tập, ảnh Internet)