Chùa Khải Đoan, tên chữ là “Sắc tứ Khải Đoan tự” (phường Thống Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) tọa lạc trên diện tích rộng 4ha, hài hòa cùng cảnh quan thiên nhiên và cây xanh. Tam quan quay ra đường Quang Trung, nhưng lối đi chính lại nằm trên đường Phan Bội Châu. Chùa quay hướng tây nam, nhìn xuống suối Đốc Học, lưng dựa vào khu phố theo thế “tiền thủy, hậu sơn” của kiến trúc truyền thống Việt.
Ngôi chùa được Đoan Huy Hoàng Thái Hậu Hoàng Thị Cúc (chính phi của vua Khải Định, thân mẫu vua Bảo Đại) cho khởi dựng năm 1951 trên khu đất do bà hiến cúng. Năm 1953, nhân ngày lễ an vị lạc thành nhà Hậu Tổ, chùa được sắc phong là “Sắc tứ Khải Đoan” dưới đời vua Bảo Đại. Dưới triều đại phong kiến, sắc tứ là tờ lệnh của vua ban cho một ngôi chùa hay một người, một sự vật đặc biệt nào đó. Dưới triều Nguyễn, những ngôi chùa được sắc tứ thường là một danh thắng có tiếng, có quy mô lớn, được trang trí lộng lẫy, nguy nga.
Năm 1953, chùa được sắc phong là “Sắc tứ Khải Đoan”. Chùa “Khải Đoan” lấy 2 chữ đầu trong tên vua Khải Định và Đoan Huy Hoàng thái hậu nhằm ghi công người sáng lập. Trên dải đất Tây Nguyên nắng gió, chùa Sắc Tứ Khải Đoan là ngôi chùa đầu tiên được tiến hành xây dựng, và là công trình Phật Giáo có quy mô lớn, đồ sộ cũng như lâu đời bậc nhất tại tỉnh Đắk Lắk. Ngôi chùa được khởi công xây dựng từ năm 1951, đến năm 1953 thì hoàn thành. Chùa Khải Đoan đã trải qua khá nhiều lần trùng tu vào năm 2012, 2015…
Chùa Khải Đoan có nhiều hạng mục như tam quan, chính điện, nhà giảng kinh, nhà Tổ, lầu chuông, lầu trống, tàng kinh các, tăng phòng… Các công trình kết nối với nhau hài hòa với kiến trúc ấn tượng. Mặc dù trải qua nhiều lần trùng tu, xây dựng nhưng chùa vẫn giữ được nét cổ kính nguyên thủy.
Các bộ phận kiến trúc công trình trong chùa Khải Đoan đều được xây dựng, trang trí công phu, tỉ mỉ, giàu tính dân tộc, có giá trị thẩm mỹ cao.
Chính điện là công trình lớn nhất, có diện tích 320m2, gồm hai tầng. Tầng dưới được xây bằng gạch, đá – là nơi học tập, sinh hoạt của sư tăng; tầng trên bằng gỗ là nơi thờ. Về tổng thể, công trình có dáng dấp của nhà dài Ê Đê với bộ mái 2 tầng, nhưng cấu trúc lại theo kiểu nhà rường của Huế. Chính giữa phía trước chính điện có một sảnh được xây bằng đá với cầu thang hai bên. Phía trên là tượng Phật Thích Ca bằng đá trắng, tầng dưới là tượng Phật Di Lặc. Xung quanh điện thờ là hành lang dài, rộng. Vách và cửa gỗ được chạm trổ công phu hình ảnh đức Phật, La Hán, Bồ Tát và những hoa văn mang màu sắc Phật giáo. Nội thất điện thờ có nhiều ô cửa thông thoáng, sử dụng kiến trúc kiểu “trùng thiềm điệp ốc” đặc trưng của cung đình Huế, tức là hai nếp nhà với hai hệ mái nối liền với nhau để mở rộng không gian. Điện thờ Phật có 5 gian với hệ thống tượng bằng đồng, được bài trí tôn nghiêm trên bệ thờ bằng gỗ quý.
Điện thờ Phật có 5 gian, được bài trí tôn nghiêm, ở giữa tôn trí tượng đức Phật A Di Đà và đức Phật Thích Ca, hai phía là tượng bốn vị Bồ Tát: Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù và Phổ Hiền.
Bức tường với thiết kế tinh xảo trong chính điện của chùa Khải Đoan.
Xung quanh điện thờ là hành lang rộng. Vách và cửa gỗ được chạm trổ công phu, đầy thẩm mỹ các hình ảnh Đức Phật, La Hán, Bồ Tát và những hoa văn mang màu sắc Phật giáo.
Cầu thang bằng đá dẫn lên điện thờ trên tầng 2. Các cấu kiện đá được tạo tác rất tỉ mỉ, công phu.
Hai bên tả – hữu chính điện có lầu trống và lầu chuông. Lầu chuông treo đại hồng chung cao 1,15m, nặng 380kg, do các nghệ nhân phường đúc đồng ở kinh thành Huế hoàn thành vào tháng 1-1954. Đây là bảo vật hiến cúng của Hoàng tử Bảo Long và Bảo Thăng (con vua Bảo Đại). Bên hữu chính điện có tòa nhà tàng kinh các – một công trình hai tầng hoàn toàn bằng gỗ với hai tầng mái. Tầng 1 là nơi nghỉ ngơi, tầng 2 là thư viện kinh sách được lưu trữ khoa học.
Bên hữu chánh điện còn có căn phòng được ví như “tàng kinh các” của Khải Đoan tự
Bên phải chánh điện còn đặt lầu chuông treo đại hồng chung có kích thước cao 1,15m; chu vi đáy 2,7m; nặng 380kg
Tầng 2 là thư viện kinh sách được lưu trữ khoa học.
Sau chính điện là nhà hậu Tổ. Công trình có cấu trúc giống chính điện với tầng 1 được xây bằng gạch, đá; tầng 2 bằng gỗ và phía trước có một sảnh nhưng kiến trúc đơn giản hơn. Điện thờ nhà hậu Tổ đặt trên tầng 2, nội thất bằng gỗ cũng kiểu nhà rường ở Huế. Ở gian giữa, phía trước đặt ban thờ và tượng Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn, phía sau là nơi thờ các vị trụ trì chùa và những cao tăng có nhiều đóng góp cho Phật giáo Tây Nguyên.
Sau chính điện là nhà hậu Tổ. Công trình có cấu trúc giống chính điện với tầng 1 được xây bằng gạch, đá; tầng 2 bằng gỗ và phía trước có một sảnh nhưng kiến trúc đơn giản hơn.
Điện thờ nhà Hậu Tổ đặt trên tầng 2. Nội thất bằng gỗ cũng kiểu nhà rường ở Huế. Ở gian giữa, phía trước đặt ban thờ và tượng Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn, phía sau là ban thờ và di ảnh của các hòa thượng trụ trì chùa, cũng như những cao tăng đã có nhiều đóng góp với Phật giáo ở Tây Nguyên.
Phía trước điện thờ nhà Hậu Tổ, trên mái sảnh là tượng Văn Thù Bồ Tát cưỡi sư tử xanh, được tạc bằng đá trắng.
Trong khuôn viên chùa còn có một số hạng mục khác có quy mô nhỏ hơn như cây Bồ đề do Đại đức Narada tặng chùa Khải Đoan năm 1962, dưới cây có tượng Phật Thích Ca tọa thiền; Công đức tạng – kiến trúc tưởng niệm công đức tiền bối và cũng là nơi an trí nhục thân cố hòa thượng Thích Quang Huy, trụ trì chùa Sắc tứ Khải Đoan (1963 – 1993); Quan Âm các – một công trình kiến trúc độc đáo.
Chùa cũng là trụ sở của Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Đắk Lắk kể từ khi thành lập vào năm 1986. Với kiến trúc độc đáo, chùa Khải Đoan nổi bật giữa vùng đất cao nguyên, ghi dấu ấn lịch sử lâu đời.
——————————————
Hồng bảo Kỷ lục được hiểu là những công trình Kỷ lục được thực hiện trong một thời gian dài, tích hợp những giá trị về kiến trúc, thẩm mỹ, văn hóa… để hình thành nên cho mai sau những di sản, đồng thời góp phần viết tiếp những câu chuyện mà cha ông đã gây dựng, từ đó góp phần định vị những giá trị địa phương nói riêng và Việt Nam nói chung vươn tầm khu vực và thế giới, góp phần định hình, phát triển hình ảnh du lịch địa phương nói riêng và đất nước nói chung thông qua những công trình biểu tượng.
Hành trình tìm kiếm TOP 100 Hồng bảo Kỷ lục Thế giới tại Việt Nam được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam (VietKings) giao cho Trung tâm TOP Việt Nam triển khai và đề cử đến Viện Kỷ lục Thế giới (World Mark) với mong muốn góp phần nhận diện, định vị, quảng bá hình ảnh quốc gia – địa phương ra thế giới. Dự án là một hành trình dài hơi và có thể tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác trong mục tiêu chung tạo ra những thay đổi về kiến trúc cảnh quan hiện hữu và quan trọng hơn là góp phần tạo nên những giá trị chiều sâu về văn hóa điểm đến hay lịch sử gắn liền với điểm đến.
Diệu Phi – VietKings (tổng hợp và biên tập, ảnh Internet)